Danh ngôn

Trong mọi cộng đồng, chúng ta cần một nhóm thiên thần gây rối.

We need, in every community, a group of angelic troublemakers.

(Bayard Rustin – trích bài phát biểu tại New York City 1963)

Trong mọi trường hợp, chắc chắn rằng sự thiếu hiểu biết, đi kèm với quyền lực, là kẻ thù tàn bạo nhất có thể có của công lý.

It is certain, in any case, that ignorance, allied with power, is the most ferocious enemy justice can have.

(James Baldwin - No Name in the Street 1972)

Các cuộc cách mạng và các cá nhân có thể bị giết hại, nhưng bạn không thể giết chết các ý tưởng.

While revolutionaries and individuals can be murdered, you cannot kill ideas.

(Thomas Sankara, một tuần trước khi bị ám sát, 1987)

Không có cảm giác nào cô đơn hơn việc bị chính đất nước mình trục xuất.

There's not a more lonely feeling than to be banished by my own country.

(Kiyo Sato – Kiyo’s Story 2009)

Ban Biên tập

Địa chỉ liên lạc:

1. Thơ

tho.vanviet.vd@gmail.com

2. Văn

vanviet.van14@gmail.com

3. Nghiên cứu Phê Bình

vanviet.ncpb@gmail.com

4. Vấn đề hôm nay

vanviet.vdhn1@gmail.com

5. Thư bạn đọc

vanviet.tbd14@gmail.com

6. Tư liệu

vanviet.tulieu@gmail.com

7. Văn học Miền Nam 54-75

vanhocmiennam5475@gmail.com

Tra cứu theo tên tác giả

Chủ Nhật, 11 tháng 3, 2018

Đừng kể tên tôi (kỳ 2)

Truyện ký của Phan Thúy Hà

7.

Ông đội trưởng đội sản xuất đánh kẻng người làng tới họp. Nội dung cuộc họp kêu gọi đóng góp một hộ dân một đến hai hào động viên cháu Ngọc lên đường làm nhiệm vụ. Cả đội sản xuất góp lại được chín đồng.

Chi đoàn thanh niên cũng tổ chức họp. Chi đoàn mua tặng tôi chiếc khăn mặt và nói lời động viên người ra trận.

Bấy giờ tôi đang là đội viên. Trước ngày nhập ngũ một vài người bên xã đề nghị tôi được kết nạp đoàn nhưng không được. Lý do là những ai đã đi học đối tượng đoàn trước đó giờ phải học lại mới được kết nạp để đoàn viên mang tên Đoàn viên Thanh niên Hồ Chí Minh. Tôi làm gì còn đủ thời gian để đi học lại.

Buổi sáng mai mẹ tiễn tôi ra đầu ngõ thì gặp ông xã đội trưởng. Mẹ bàn giao tôi cho ông rồi về. Sao mẹ không đi cùng tôi thêm đoạn nữa? Sao chị và em gái không tiễn tôi đi như những gia đình khác? Đến xã Phú Gia, nơi đơn vị huấn luyện về nhận quân, thấy mỗi người đi đều có cả gia đình bên cạnh. Họ ngồi trò chuyện to nhỏ đến tận trưa. Tôi thì một mình.

Tôi một mình nhưng không buồn. Tâm trạng vẫn đang hồi hộp vì biết phía bên nhận quân còn kiểm tra sức khỏe một lần nữa. Tôi chưa chắc chắn mình được đi.

Xã đội trưởng bước ra từ nhà dân gần đó với khuôn mặt bực bội. Ông vừa bị huyện đội trưởng phê bình quát tháo. Lý do tại sao huyện yêu cầu phải vận động được mười hai người mà giờ chỉ có mặt được bảy. Tôi lại lo. Không đủ số quân họ hoãn lại thì sao.

Buổi trưa chúng tôi vào nhà dân nghỉ chân và nấu cơm. Trong nhà không có gì để nấu. Mỗi người góp ít tiền đi mua gạo còn rau thì đi xin. Bữa cơm đầu tiên xa nhà ăn qua quýt.

Ba giờ chiều đơn vị nhận quân gọi tên khám lại. Tôi được nhập ngũ chắc chắn rồi. Lòng tôi vui sướng mà không có ai bên cạnh để reo lên.

8.

Hành quân. Mỗi người vác trên vai năm ngọn lá cọ để đến nơi huấn luyện lợp lán trại.

Hương Thu, Hương Thanh. Những xã trong huyện lần đầu tiên tôi đặt chân tới. Giọng nói người dân ở vùng này sao khó nghe. Họ nói sai dấu và phát âm kéo dài.

Chân tôi đi bộ nhiều quá sưng phù. Đêm xuống một người bà đun nước ấm pha muối bảo tôi ngâm đỡ đau để mai còn đi tiếp.

Nhìn tôi nhỏ quá, một người đi cùng đoàn vỗ vai: “Mày tiễn anh nào mà đi xa thế, sao qua đêm vẫn chưa về?”. Ba người đã hỏi cùng câu đó. Tôi là bộ đội rồi. Họ không biết tôi là bộ đội sao.

Chuyện thấp bé nhẹ cân còn làm tôi lo âu thêm lần nữa khi đến Cẩm Xuyên. Hai người đi lại trước mặt tôi. Tay họ cầm cuốn sổ và cây bút. Một người cầm tay hỏi tôi tên gì. Người thứ hai khuôn mặt đầy vẻ băn khoăn. Họ trao đổi với nhau gì đó rồi bỏ đi. Một lúc sau quay lại nắm tay tôi lần nữa: cậu được cử làm liên lạc cho ông Thứ.

Buổi học chính trị đầu tiên. Không có bàn ghế, chúng tôi tháo dép lốp ra ngồi. Một ai đó nhanh ý đi mượn được cái ghế nhỏ trong nhà dân. Họ đứng dậy bỏ đi đâu đó. Tôi với tay lấy ghế thì một bàn tay khác cũng giành lấy. Hai tay giằng co. Tôi ngước mắt nhìn lên. Thầy chủ nhiệm lớp 5 của tôi. Thầy Phàn. Thầy chuyển về trường khác dạy cách đây hai năm và ra đi nghĩa vụ từ xã đó.

Tôi thả tay ngay và cùng lúc bàn tay kia cũng rời ra. Hai thầy trò nhường nhau chiếc ghế. Giờ chúng tôi là đồng đội.

9.

Sáu tháng huấn luyện ở Cẩm Xuyên. Ba tháng huấn luyện ở Hương Sơn.

Tập bắn súng. Đào hầm. Làm lán trại. Nấu ăn nhanh. Báo động ban đêm. Cơ động đơn vị.

Trong thời gian huấn luyện ở Cẩm Xuyên tôi được về nhà mười ngày.

Từ ngày tôi đi ở nhà mỗi lần bom trút gần là mẹ lại nằm vật ra hai chân đập đét. Mẹ hốt hoảng mẹ khóc. Nó giết mất thằng con tôi trời ơi. Nóng ruột quá mẹ lại chạy đến nhà ông xã đội trưởng gào thét như thể ông là người gây ra nông nỗi này.

Trước hôm tôi về một người anh nói nhỏ: Mày về rồi cho cha tao xuống đây nhé. Tôi nói: Anh cũng vừa được về mười ngày mà. Anh bảo: Cha tao muốn biết đơn vị con.

Tôi đưa cha anh xuống đơn vị. Hai bác cháu đến nơi vừa bữa cơm trưa. Có tiền mẹ cho trước lúc đi, tôi mời bác vào quán cơm. Bữa cơm có thịt trâu, cá kho và một bát canh cá. Tôi muốn bác yên lòng. Muốn cho bác thấy đời lính không có thiếu thốn đói khổ gì đâu. Bọn con thích thì còn gọi cả rượu.

Gặp con trai, bác nói với anh, thằng Ngọc làm gì ở đơn vị mà khá lắm, nó mời tao một bữa ra trò. Bữa cơm ra trò ngày hôm đó sau này mỗi dịp gặp tôi bác lại nhắc.

Người anh nhờ cha nói với thủ trưởng cho về. Anh muốn hình ảnh cha già lam lũ ốm yếu sẽ lay động lòng thương. Ở nhà anh còn vợ và con nhỏ.

Hôm sau anh lắc đầu: Không được mày ạ. Mày làm liên lạc quen biết nhiều hơn mày nói với họ một tiếng giúp tao. Mày nói là tao xuống đây ăn cơm không quen bị đau bụng.

Tôi trả lời anh, nói giúp anh câu đó đơn giản thôi nhưng khó nghe quá anh ạ.

10.

Ngày 12 tháng 1 năm 1971 tiểu đoàn được lệnh vào Nam.

Mọi người có mặt tại sân vận động Sơn Quang nghe tiểu đoàn trưởng tuyên bố: Cuộc hành quân trường kỳ đánh Mỹ của tiểu đoàn ta bắt đầu.

Âm lịch hôm nay là ngày 29 Tết.

Đang tập trung tôi nhìn thấy anh Nam người cùng làng đạp xe đi qua. Lúc này nhìn thấy anh trong lòng xúc động như thấy gia đình mình. Tôi chạy ù ra, ôm lấy anh nghẹn ngào mãi mới nói được. Lúc nào về phép nhờ anh đến thăm mẹ em, nói với mẹ là em đã đi chiến trường. Từ nay thư từ không nhờ anh gửi được nữa rồi.

Lệnh không được mang theo sổ tay, nhật ký. Ai có thì nhờ người gửi về nhà cất, nếu không gửi về được phải đốt. Lý do không được mang đi là đề phòng bị địch bắt cuốn sổ sẽ rơi vào tay địch. Địch sẽ lần theo địa chỉ về tận địa phương rải truyền đơn xuyên tạc sự thật gây hoang mang cho người ở nhà. Cha mẹ họ hàng dân làng sợ hãi không cho con đi lính. Thanh niên sợ hãi mà chùn chân.

Tôi bí mật cất cuốn lưu bút vào đáy ba lô. Thỉnh thoảng mang ra đọc và chép chuyện xảy ra trên đường chiến đấu.

Tiếng hô lớn hành quân. Đoàn người cất bước dọc bờ đông dãy Trường Sơn.

Qua đò, hai xe ô tô chờ sẵn.

Xe chuyển bánh cũng là lúc xóm Sơn Phố lên đèn.

Trên xe, phải giữ bí mật nên anh em không nói chuyện nhiều. Vài cái đầu thò ra ngoài xe nôn. Ba, bốn tiếng đồng hồ sau thì những ai bị say xe nôn hết ra ba lô của người ngồi trước và người ngồi bên cạnh.

Đến Quảng Trạch - Quảng Bình rồi các chú ạ. Lái xe thông báo. Chúng tôi được ở lại Quảng Trạch một ngày. Tới xã Cự Nẫm, huyện Bố Trạch thấy người dân nấu bánh chưng, chuẩn bị đồ tết nhớ ra ngày mai là tết.

Hành quân bộ đường rừng vào ban đêm. Cơn mưa rừng đầu tiên trút xuống. Máy bay B52 dội bom. Những mảnh bom lừ lừ bay sát qua đầu, đất đá văng ào ạt. Dưới chân bùn đến mắt cá chân. Ba lô trĩu nặng. Trời tối thui không nhìn thấy đường đi. Đêm ba mươi tết đất trời thương xót không ai bị trúng bom.

Mờ sáng đến trạm 5 của đường dây 559. Bên vệ đường thấy một nồi cơm trắng đổ xuống gốc cây. Nghe nói là chiều qua nhiều tiểu đội không cắt cử người nắm cơm mà để nguyên cả nồi cơm gánh lên xe nên sáng ra phải đổ cơm đi để lấy nồi. Đến chiều nồi cơm của tiểu đội tôi cũng bị đổ đi vì lý do như vậy.

Hành quân hết đất Quảng Trị tôi được lệnh bổ sung cho sư đoàn 320 tham gia chiến dịch Nam Lào.

11.

Trận chiến đầu tiên của đời lính.

Ngày 2 tháng 2 năm 1971.

Đại đội lên đường vào vị trí chiến đấu tại căn cứ điểm 601.

Năm giờ sáng.

Bốn chiếc xe tăng. Gọi là một đại đội xe. Đoàn xe xuất kích được một chặng đường, cách trận địa chừng một cây số thì một chiếc bị sa lầy, rơi vào hố bom địch.

Địch đổ bộ vào hôm qua. Hôm nay ta đánh. Chúng chưa kịp làm hàng rào.

Ba chiếc xe tăng tiến vào. Địch trong đồn dùng súng hỏa lực, súng bộ binh, súng hỏa lực tầm xa bắn xung quanh trận địa. Hàng chục chiếc trực thăng, hàng chục chiếc 0V10. AD6 bay rầm trời trút đạn rocket xuống hướng quân ta đang tiến.

Đài quan sát của ta báo về lực lượng địch trên đồn gồm một tiểu đoàn bộ binh.

Địa hình này tôi hoàn toàn xa lạ. Tôi được bổ sung vào tiểu đội cối 60, tức tiểu đội 10 hỏa lực của đại đội 11, tiểu đoàn 9, trung đoàn 64, sư đoàn 320.

Trước khi đi tôi được bố trí mang 1 cái đế cối nặng 15 kg, 11 quả đạn, 1 khẩu AK có 100 viên đạn.

Đơn vị dàn quân, nghe lệnh của đại đội nổ súng. Tiểu đội có hai khẩu cối. Tôi đã tiếp tay cho xạ thủ số 2 được năm quả. Súng bộ binh chưa bắn được viên nào.

Mười giờ.

Địch co cụm lại. Ta chiếm được lô cốt đầu cầu và tuyến 1.

Quân ta tạm dừng lại. Lý do là ông Nguyễn Văn Tranh tiểu đoàn phó đã bị một mảnh pháo cắt đôi ống tay trái từ khúc tay trở ra. Cánh tay dính vào cơ thể bằng một mảnh da và cụm gân. Tổ liên lạc đang băng bó. Ông lệnh cho liên lạc tiểu đoàn là anh Kiều Duy Tý chặt đứt phựt ngay phần lủng lẳng băng bó cho tiện. Mọi người nhìn nhau ngập ngừng.

“Không làm được gì nữa đâu mà để lại”.

Anh Kiều Duy Tý rút dao găm ra thực hiện mệnh lệnh thủ trưởng.

Trận đánh tiếp tục.

Viên AR15 xuyên qua ngực ông Bảy đại đội phó đại đội 1. Trận địa như đang trong cơn giông bão. Tiếng đạn bộ binh trong đồn bắn ra không ngớt. Rừng nứa gãy đổ toang toác. Tiểu đội tôi là tiểu đội hỏa lực, không được bắn tùy tiện.

Tôi được phân công cùng với đồng chí vận tải tiểu đoàn khiêng ông Bảy ra phía sau. Ông Bảy nằm trên cáng thương lúc tỉnh lúc mê.

Chúng tôi vừa đi vừa dò đường. Ra phía sau trận đánh có nhiều người đi lại. Họ chỉ chúng tôi cách qua khe qua suối.

Vừa mệt vừa đói chúng tôi dừng chân nghỉ. Cơm của tôi bỏ lại trận địa. Tôi ăn chung nắm cơm của anh vận tải.

Ăn cơm xong nhìn ông Bảy tưởng như chết rồi. Tôi hơi hoảng. Anh vận tải có kinh nghiệm lấy tay đẩy nhẹ vào lỗ mũi ông và sờ vào ngực thấy tim vẫn còn đập. Mừng quá vừa cáng vừa chạy để kịp bàn giao cho tuyến ngoài.

Năm giờ chiều chúng tôi xong nhiệm vụ bàn giao thương binh.

Đói quá, chúng tôi đi tìm anh nuôi xin cơm. Anh nuôi trả lời, ở đây chỉ có nước chứ cơm thì không.

Hai anh em tìm về đơn vị. Đi đến bên con suối lớn nghe tiếng một đơn vị gần đó đang chia cơm. Tôi chạy vào cầm ngay cái vung giữ tay anh nuôi lại cầu xin. Chúng tôi đưa thương binh ra phía sau, giờ về đơn vị thì xa quá, xin anh bớt cho một xẻng cơm. Theo tay anh nuôi chỉ tôi chạy vào hầm lấy ăng gô ra đựng phần cơm mình.

Ăn xong thì trời tối. Cơn buồn ngủ kéo đến. Chúng tôi xin được ngủ lại. Không cần họ trả lời, hai anh em bẻ ôm lá rải bên bờ suối ngủ một mạch tới sáng.

Tám giờ tối chúng tôi lần tìm về được tới đơn vị. Sau trận hôm qua tiểu đội tôi hai người hy sinh, một người bị thương.

Tiểu đoàn phó Nguyễn Văn Tranh đã hy sinh.

Sau khi được băng bó ông Tranh tiếp tục chỉ huy đơn vị đến hai giờ chiều. Đơn vị chiếm lĩnh trận địa. Tạm thời thắng lợi. Ông bị trúng đạn thêm lần nữa. Một viên đạn AR13 bắn xuyên đùi. Máu ra quá nhiều.

Tiểu đoàn ra trận ở thế chủ động, qua một ngày con số hy sinh và bị thương hơn một nửa. Số quân còn lại 150 người. Tiểu đội hỏa lực 9 người còn lại 6.

Chúng tôi nghỉ lại bên bờ suối một ngày để củng cố lực lượng.

Chưa kịp nghỉ ngơi thì nửa đêm có lệnh phải trở lại vị trí hôm qua để thay cho đại đội 10 đang nằm giữ trận địa. Đại đội lên đường trong đêm.

12.

Bản A Lầy Nhầy.

Bảy giờ đêm, ngày 29 tháng 4 năm 1971.

Chúng tôi được lệnh lên đường đến bản Đông tập trung cho toàn bộ tiểu đoàn để chi viện cho đơn vị bạn.

Dàn xong đội hình chúng tôi nghe phổ biến mật khẩu đề phòng ta và địch chạm mặt nhau mà không phân biệt được.

Đại đội trưởng Tài đi từ đầu đoàn đến cuối đoàn: Hỏi Tài thì đáp Sộp. Hỏi Sộp đáp Tài. Và ngược lại.

Ông Tài là đại đội trưởng. Ông Sộp là chính trị viên trưởng đại đội.

Mật khẩu thứ hai: Vỗ vào báng súng ba cái thì đáp lại hai cái. Vỗ vào báng súng hai cái thì đáp lại ba cái.

Bảy giờ đêm rừng núi mịt mù. Trinh sát dẫn đầu. Anh em nghe tiếng động nhẹ bám sát vào nhau đi theo hàng dọc khỏi bị lạc.

Không nghe tiếng máy bay. Chỉ có ánh lửa chớp nhoằng nhoằng trước mặt. Và tiếng ầm ầm của đất đá cây cối.

B52 rải cắt ngang đội hình.

Tôi bị tung lên lên ngọn cây. Lộn nhào xuống. Mũ cối vẫn trên đầu.

Tôi bò dậy. Cảm thấy khó thở. Mặt ướt đẫm. Hai tay vuốt liên tục. Máu chảy ra từ mũi từ miệng mà tôi tưởng là mồ hôi.

Tôi về hầm. Chúng tôi mới rời đi mấy chục bước chân.

- Mày sao nằm đó. Ra mà nhặt anh em. - Một người anh quát.

- Không hiểu sao em bị choáng đầu ù tai. - Tôi đáp.

- Vậy cứ nằm đó đi.

Trong bóng đêm anh không nhìn thấy mặt tôi lấm máu.

Tôi nằm thêm một lúc rồi cũng phải dậy. Tai vẫn ù đầu vẫn choáng váng. Tôi ra cùng anh em đi nhặt anh em. Những người anh em tôi chưa biết mặt.

Chúng tôi mò mẫm nhặt suốt đêm. Sáng sớm mai nhìn thấy bốn khối thịt xương. Tiếp tục nhặt. Phải nhặt hết. Không được để sót.

Nhìn lên ngọn cây là ruột. Xuống dưới khe là chân. Bên kia sườn núi là đầu. Tôi nhặt đem về đổ vào số xương thịt anh em.

Đại đội trưởng Tài đâu?

Một thân người nằm gục dưới chân cột ngôi nhà sàn. Mảnh bom xuyên thẳng vào hậu môn. Tôi lật mặt người. Đại đội trưởng đã chết cứng.

Tôi tìm thấy ba lô mình văng ra bên một gốc cây đã bị phạt ngang. Hình dung ra cảnh đêm qua mình bị hất tung lên và rơi xuống cùng lúc với thân cây. Tôi đã vướng phải một quả bom đào nổ dưới chân. Nếu không phải bom đào thân thể tôi chắc đang nằm trong đống thịt phân chia đằng kia.

Tiểu đội hỏa lực của tôi đi giữa đội hình đại đội. Một người bị lìa đầu, một người văng mất chân.

Các đơn vị đưa danh sách số người chết. 58 người chết. 60 người bị thương.

58 phần xương thịt chia ra tương đối đồng đều. Không cần khớp. Không cần đầy đủ. Không cần. Không thể.

Trải tăng. Trải ni lông. Bốc thịt bốc xương vào.

58 ngôi mộ.

Ban chỉ huy đại đội 11 bị xóa sổ.

17 tuổi. Tôi viết trong cuốn sổ đây là trận số 10.

Còn bao nhiêu trận đang chờ tôi phía trước?

13.

Sau trận xảy ra ở bản A Lầy Nhầy tôi phải vào nằm viện hai ngày. Ra viện mặc một bộ quần áo và đi đôi dép nhặt được của người đã hy sinh.

Về đến đơn vị nhận lệnh lên chốt ở căn cứ mới chiếm được hôm trước.

Giữa mùa chiến dịch pháo bắn tứ phương, máy bay hoạt động đầy trời, đường lên chốt qua nhiều khe suối, anh nuôi đưa cơm khó khăn. Có khi hai ngày vẫn không lên được.

Cách trận địa ba trăm mét có kho lương thực của ta đã bị đốt cháy cách đấy hơn một tháng. Trung đội trưởng cho hai người ra kho tìm xem có gì ăn được không mang về. Việc này cũng là liều bởi vì địch thường gài mìn xung quanh kho và dưới các thùng lương khô.

Hơn tiếng đồng hồ sau hai người trở về cùng thùng lương khô đã cháy khét. Tôi cố gạt từng thanh, tách hết lớp cháy đen thui, còn lại một chút bằng ngón tay màu hồng cho vào miệng cố nuốt mà đắng quá không nuốt được.

Tôi mang súng dạo quanh chốt xem địch còn sót lại cái gì ăn được không. Gặp được mấy bọc cơm của anh em đã chết cách đó cả tuần. Mang về dùng dao cắt gọt. Phía ngoài bị mốc rêu xanh, lớp trong mùi rượu. Cắt cho mỗi người mỗi miếng nuốt thật nhanh.

Pháo tầm xa các ngả của địch tập trung bắn về cao điểm 826 ở cây số 23. Bắn liên tục mười một tiếng đồng hồ thì ngớt. Ba phía chân đồi địch bò lên đồng loạt.

Bò lên cách chừng năm mươi mét chỉ huy địch hô to xung phong. Chúng tôi bên trong chờ lúc đó nổ súng và lựu đạn. Hai bên giao tranh liên tục một giờ đồng hồ. Địch chết, bị thương, bỏ chạy xuống chân núi. Anh em mở ba lô địch vừa chết tìm đồ ăn. Ba lô nào cũng có cơm, gạo, giò và thuốc lá. Cười nói với nhau, trận nào cũng được như thế này thì hay quá.

Tôi lên cơn sốt. Sốt và khát nước kéo dài suốt bốn, năm tiếng đồng hồ. Nằm mê man dưới giao thông hào. Xẩm tối chỉ huy chốt cho tôi bám theo anh nuôi đưa cơm về tiểu đoàn uống thuốc. Ba giờ lên cơn sốt một lần. Tôi lả đi. Anh em y tá cho tôi về tuyến sau.

Đêm cuối tháng 5 năm 1971 chiến dịch Nam Lào kết thúc. Tôi nằm bệnh viện của trung đoàn. Tiếp tục lên bệnh viện mặt trận B5 của quân khu.

Lên viện mặt trận tôi mới biết bệnh viện dã chiến theo đường dây của chiến dịch có quá nhiều thương binh ở mặt trận về. Thương binh và bệnh binh sốt rét phải đi ra theo tuyến sau.

Anh em y sĩ cho tôi lên một chuyến xe ra Bắc. Vượt qua đèo 900 ở Quảng Trị xe phải dừng lại vì một đoạn đường vừa trúng bom, công binh đang khắc phục. Tôi nằm trên xe rét run lẩy bẩy lúc tỉnh lúc mê. Một mình tôi là bệnh nhân sốt rét, mười người kia là thương binh nặng. Tất cả đều nằm. Không ai ngồi được. Không ai nói với ai câu gì. Thỉnh thoảng có tiếng la hét vì đau quá. Một tiếng bom nổ bên cạnh đồi. Đất đá rơi vào thùng xe trúng vào người đang nằm trên xe. Và lại tiếng la hét.

Đường được san lấp. Xe tiếp tục đi. Mờ sáng hôm sau chúng tôi được cáng vào một hang đá to rộng. Tôi ngắt cơn sốt, tỉnh táo, dậy đi lại. Hang đá đông người nhưng vẫn mát mẻ. Có máy nổ thắp sáng. Có mạch nước ngầm để sinh hoạt. Đó là một bệnh viện của đường dây mặt trận B5 và sở chỉ huy của mặt trận.

Ở lại đây một ngày chứng kiến mười lăm trận bom. Mỗi lần bom dội đá trên núi tuôn xuống cửa hang trắng như vôi.

Hôm sau chúng tôi lên xe và lần này chở thêm mười lăm thương binh. Thương binh nặng nằm trên lớp lá cây. Đường đi quá xấu. Xe lắc mạnh. Có những đoạn đường vừa làm được vài tiếng đồng hồ đã bị phá. Lại dừng chờ.

Tận khuya xe đến đất Vĩnh Linh. Y tá và nhân viên chạy ra khiêng bệnh nhân nặng. Bệnh nhân nhẹ từng người được dìu, được cõng vào lán. Giường cơ động là những tấm phản được đặt trên hai cây gỗ nhỏ. Những cử chỉ ân cần ấm áp. Tôi cảm thấy như được về nhà mình, đang ở nhà mình. Lâu quá rồi tôi không được sống trong hơi ấm gia đình.

Sáng sớm tiêm xong tôi mang quần áo ra suối giặt. Ngâm mình trong nước suối Vĩnh Linh trong vắt ban mai nước mắt tôi lăn trào. Sao mà bình yên thế này. Không tiếng bom gầm. Tiếng đạn bộ binh nghe thưa và xa tít.

Tôi vò hai bộ quần áo. Một bộ dài và một bộ mặc lót. Bệnh viện không có xà phòng tôi phải đi tìm hòn đá nhám để chà cho hết các vết máu khô.

Hai bộ quần áo này đâu phải của tôi. Và bộ quần áo lát nữa sẽ mặc cũng không phải của tôi. Đó là quần áo của những người đã bỏ xác lại chiến trường.

Đồng chí ơi áo quần này bao lâu rồi anh chưa giặt. Tôi đang giặt quần áo cho anh tôi sẽ mặc quần áo của anh. Tôi đang kỳ sạch những vết máu khô bụi đường.

Một người xuống suối tắm. Nhìn vẻ mặt tôi anh hỏi có phải là lính mới không. Tôi nói về những bộ quần áo. Anh vỗ vai ối trời ơi chuyện thường. Mày lính mới chứ bọn tao lính sáu bảy sáu tám. Đâu phải mỗi mày nhặt đồ người chết. Cái quần tao đang mặc đây bị bom làm mất nửa ống rồi, tao cũng không biết mình mặc lại của liệt sĩ nào.

14.

Sau chiến dịch Nam Lào đơn vị quay về đóng quân tại Kỳ Anh. Cuối tháng 10 năm 1971 nhận nhiệm vụ đi B dài.

Bảy ngày đi được một ngày nghỉ. Sau một tháng nâng lên mười ngày đi một ngày nghỉ. Đi được một tháng hai chín ngày tới Ngã ba Đông Dương. Chúng tôi được bố trí đến Kon Tum.

Kon Tum mùa khô. Khu rừng không có dân cư. Nơi đây có vẻ như chưa từng có dấu chân người. Trên rừng không biết kiếm thứ gì ăn. Khe suối khô cạn. Sư đoàn dừng lại đây dựng lán trại và tiếp tục học chính trị.

Học chính trị. Giáo viên là những người ngoài Bắc vào. Chúng tôi ngồi im chúng tôi nghe.

Việt Nam hóa chiến tranh là âm mưu, thủ đoạn của Đế quốc Mỹ; là chiến lược dùng người Việt đánh người Việt để giảm xương máu người Mỹ trên chiến trường. Lực lượng quân đội của chính phủ Việt Nam Cộng hòa được Mỹ viện trợ về tài lực và quân sự đánh thuê cho Mỹ.

Sứ mệnh của người lính chúng ta là bảo vệ tổ quốc, thống nhất đất nước.

Tôi học chưa xong lớp bảy buông sách vở ra đi. Kiến thức về lịch sử đất nước còn mơ hồ. Bài giảng về lịch sử hôm nay ngấm vào máu.

Ban ngày học chính trị đêm về thì đói. Đói cồn cào ruột gan.

Đói. Nghĩ gì cũng thèm. Đói. Lúc nào trong đầu cũng nghĩ cách kiếm cái gì cho vào bụng.

Các thủ trưởng đi trinh sát. Sư đoàn còn lại hai cấp phó và anh em lính.

Tiêu chuẩn mỗi người một ngày bốn lạng gạo. Không rau, không thức ăn, không muối.

Tiêu chuẩn mỗi người một ngày bốn lạng gạo rồi cũng không còn được duy trì. Gạo đã hết.

Chúng tôi vào rừng tìm nhai thử các loài cây lá xem có gì ăn được hay không mang về. Đi hai, ba cây số tìm được củ mài. Mùa khô cây khoai mài bị trụi lá khó phát hiện, tinh mắt và có kinh nghiệm đi rừng mới tìm được.

Ngày hôm sau đi thêm ba cây số nữa phát hiện ra một rừng cây giống như cây dừa. Anh em gọi là dừa núi. Cây dừa núi cao, thân to. Trèo lên chặt ngọn xuống rồi băm bỏ hết phần thân ngoài, ăn phần nõn. Cả tiểu đoàn tập trung về đó khai thác. Mới hai ngày mà cây đổ ngã vài héc ta. Sợ lộ nơi đóng quân, trung đoàn không cho khai thác nữa.

Cứ lần hồi qua ngày như vậy. Ngày nào không học chính trị thì đi rừng tìm lượm. Thấy gì cũng cắn thử nhai thử, vị đắng thì nhả ra.

Tôi tìm thấy một cây mướp có vị đắng. Về thông báo với anh em trong tiểu đội. Hôm sau vào hái thì cây mướp chỉ còn lại mấy quả. Đêm qua ai đó ở tiểu đội khác nghe được và họ đã đi hái trước.

Tết đến. Cái tết thứ hai của đời lính. Tết đầu tiên trên đường hành quân. Quà tết là những trận bom nổ toác đường đi. Sau này, đón thêm ba cái tết ở chiến trường nữa mới thấy được đây là cái tết yên vui nhất đối với tôi trong những năm ở rừng.

Tiêu chuẩn tết: Bảy người một lạng thịt trâu. Năm người một lạng thịt lợn. Một người hai lạng nếp. Ba người hai lạng đường. Ba người một lạng thuốc lá rời có kèm theo giấy để cuốn.

Anh em trong tiểu đội bàn bạc. Một kế hoạch được lập ra. Chúng ta sẽ mang đồ dùng cá nhân đi vào bản làng đổi nếp.

Cách nơi chúng tôi đóng quân mười lăm cây số có một bản làng.

Những người lính có gì để mang đi đổi?

Đoạn dây cao su phòng khi đứt quai dép thì thay, khăn mặt, lọ thuốc nhỏ mắt, khăn mùi soa, ảnh người thân, các lọ thuốc nhỏ mắt.

Đổ hết đồ trong ba lô ra, ai có gì góp nấy.

Tôi và anh Kiều Duy Tý lên đường đi tìm đồng bào đổi quà. Anh Kiều Duy Tý giờ đã là tiểu đội trưởng. Phải đi thật kín đáo để trung đoàn bộ và các đơn vị bạn không nhận ra.

Chín giờ đêm hai anh em lên đường. Đèn pin ngụy trang, chỉ để ánh sáng lọt ra bằng hạt ngô, dùng la bàn chỉ theo hướng Tây Nam.

Mò mẫm theo đường mòn sáng hôm sau thì đến bản. Chúng tôi nói tiếng Kinh họ nói tiếng đồng bào.

Chúng tôi đưa các đồ vật ra khoe và ra ký hiệu đổi.

Tiểu đội trưởng giơ cuộn dây cao su và đế dép cao su ra làm mẫu. Một đôi dép cao su hoàn thành trong chốc lát.

Đồng bào thích không?

Thích.

Thích thì một đoạn dây đổi hai típ gạo nếp.

Đồng bào đồng ý đổi. Năm đoạn dây cao su đổi được mười típ gạo.

Tôi đưa lọ thuốc nhỏ mắt ra, gọi ba người mắt kèm nhem đứng xếp hàng để nhỏ vào mắt cho họ. Đồng bào hiểu ý đây là thuốc quý làm sạch mắt bẩn.

Họ quay lại nói với nhau điều gì đó. Một lúc sau thấy nhiều người kéo đến. Hai anh em như hai nghệ sĩ tài ba đứng biểu diễn ảo thuật trước những con mắt ngạc nhiên thán phục của dân bản.

Đồng bào thích không? Ai cũng gật đầu. Một lọ thuốc nhỏ mắt đổi năm típ gạo.

Một cái khăn mùi soa đổi hai ống cơm lam. Riêng chiếc khăn có dòng thêu mến tặng và bông hoa đổi được ba ống cơm lam.

Còn ảnh cô bạn gái. Tiểu đội trưởng gọi một thanh niên lại. Có thích không? Thích. Thích thì đổi. Đợi khi nào cô ấy vào thì lấy. Bức ảnh của người bố. đồng bào thích không?

Xế chiều, hai ba lô chật căng. Đồ mang đi đổi cũng đã hết. Chúng tôi hẹn hôm sau quay lại mang theo nhiều thứ quý giá.

Một cô gái có vẻ như nuối tiếc. Tôi nói, còn cái này để đổi nữa thôi. Tôi kéo cô lại chỗ kín đáo, chỉ vào cái quần đùi màu đỏ đang mặc trên người. Cô ra hiệu muốn đổi chiếc quần màu đỏ bằng một gùi rau cải.

Băng rừng, về đơn vị. Chờ tới trời tối mịt chúng tôi mới dám ra khỏi rừng. Chuyện này lộ ra sẽ bị kỷ luật.

Anh em ngâm gạo, gói bánh, mượn nồi anh nuôi về nấu. Đêm ba mươi tôi mang một chiếc bánh lên biếu đại đội phó. Bánh đâu ra thế này. Chết chết. Các cậu làm thế này thì chết.

Những năm tháng ở Tây Nguyên, hãy nói về chuyện ăn trước khi nói chuyện đánh nhau.

Thiếu muối. Cả tháng trời không có muối.

Không có muối chúng tôi phải làm cách gì?

Chặt tre, đốt phần mắt tre cháy thành than dùng thay muối. Hoặc ăn thật nhiều ớt.

Một hôm có người anh em reo lên mừng rỡ. Có muối rồi. Đó là muối mỏ. Muối này chát xít, đào trên rừng mang về, từng cục to tướng. Cho vào nồi quân dụng luộc sôi. Đổ nước đen bẩn.

Tiếp tục nấu. Nấu suốt cả ngày như nấu cao. Cho đến khi cục muối tan mịn mới chia về các đơn vị.

Chúng tôi run rẩy chống gậy đi từ dưới dốc lên. Trên dốc xuất hiện cô gái bản. Cô đang đi xuống. Váy xòe tung tẩy. Khuôn mặt tươi sáng. Chút phấn khích cho một ngày hành quân mệt mỏi.

Lưng chừng dốc, bộ đội đi chậm lại, cô em cũng đi chậm lại. Nhìn nhau. Sát vào mặt nhau.

Thằng Chung nghịch ngợm dùng cây gậy trong tay khều váy cô em: Ê đồng bào, cái gì đây?

Cô gái là con ông trưởng bản.

Chiều tối về đơn vị đã thấy cô gái cùng với cha mình ra ngồi chờ đấy. Hai cha con đến báo cáo sự việc lên thủ trưởng.

Bộ đội không tốt. Bộ đội nhìn thấy của quý của con gái mình rồi. Đồng bào mình không bao giờ có chuyện đó. Bộ đội làm chuyện xấu giờ con mình không ai lấy nữa, không có chồng nữa.

Bộ phận chính trị - ngoại giao đứng ra thu xếp với trưởng bản. Trưởng bản bắt đền ba tạ muối.

Không đền thì phải bắn bộ đội.

Ba tạ muối đủ cho cả một sư đoàn dùng trong thời gian dài. Ba tạ muối đưa được từ Bắc vào Tây Nguyên là chuyện không đơn giản. Dân bản ở đây nằm giữa ta và địch. Ta đang muốn dân bản về phía mình. Để họ mất lòng là nguy hiểm.

Mùa mưa tới. Rừng xanh tươi, mát mẻ.

Suối nước đã tràn về, xuống khe bắt cá. Chặt cây dương xỉ bên bờ suối, lấy phần lõi, đem về kho với cá. Cây dương xỉ trong rừng lâu năm, cao vỏng như cây gỗ.

Một người trong tiểu đội tìm được rổ nấm mang về nấu cháo. Nấm độc. Ăn xong bảy người nôn mửa, đi ngoài. Cả tiểu đoàn còn một cân đường để dành cấp cứu cho ban chỉ huy phải đưa ra giải độc.

Gặp được vườn chuối ngày nào cũng ăn chuối trừ bữa. Sau một tuần không đi ngoài được, ai nấy như rơi vào trận ốm nặng.

Đi ăn trộm trộm sắn của đồng bào. Sắn luộc nửa chín, nửa sống chưa kịp thông báo cho anh em thì máy bay địch rà rà trinh sát. Chết thì chết tao ăn cái đã. Anh Thắm người Cao Bằng chạy đi tay vẫn cầm theo sắn nóng. Cầu mong anh đừng bị thương khi sắn vẫn ngậm trong mồm.

Tôi đi vào bản không còn ai. Họ đã chuyển đi đâu không rõ. Còn lại một con chó. Tôi đập chết con chó mang về cứu đói anh em.

Tiêu chuẩn bệnh nhân sốt rét mỗi tuần được một bữa cá mắm, một thìa canh. Cá mắm vận chuyển từ Campuchia về đến mặt trận đã thành ruốc mùi khó chịu. Trong cơn mê man tôi mơ được ăn bát cơm nóng muối vừng.

Một trăm xe hàng xuất phát từ Ninh Bình, Thanh Hóa có bao nhiêu xe qua được vùng Nghệ Tĩnh. Và trong số xe đi đến Quảng Trị bao nhiêu lên được tới Tây Nguyên?

Bao nhiêu xe chở hàng cháy dọc đường. Bao nhiêu người lính lái xe đã bị thương. Chúng tôi biết vì sao mình đói. Chúng tôi phải tìm cách để sinh tồn.

Canh chốt đói lả anh nuôi không lên được chúng tôi mong địch lên. Trong ba lô địch luôn có đồ ăn.

Trên đồi cao hai điểm chốt A và B. Bên chốt A diệt địch thu được chiến lợi phẩm là bao gạo. Ban đêm địch không lên chốt. Nửa đêm anh em mang nồi đại liên đựng đạn của địch ra nấu cơm. Nhắn người bên chốt B sang ăn cùng.

Sáu anh em ngồi trong hầm thấp chờ cơm chín. Những khuôn mặt háo hức nhìn xuống nồi cơm. Người lính mới dùng nồi đại liên không biết tháo dây roăng trước khi nấu. Tiếng nổ vang. Nồi cơm bung nắp. Cơm bắn tung tóe vào mặt vào mắt. Tất cả đều bị bỏng. Người anh ở chốt B sang bỏng nặng quá một mắt bị mù. Anh ấy đã bị thương vì bom cơm trên chốt lúc giữa đêm.

P.T.H.

(Xem tiếp kỳ sau)